Mơ - vị thuốc mùa xuân
Mơ, mận, đào đều là các loài hoa mùa xuân rất quen với mọi người, đồng thời còn là những vị thuốc quý.
Dưới đây xin giới thiệu những cách trị bệnh từ cây mơ, mà có nơi còn gọi là cây mai.
Cây mơ ra hoa vào cuối mùa đông, quả chín vào tháng 3, tháng 4, mặt ngoài quả có lông tơ mượt như nhung. Khi còn xanh, quả có sắc lục xanh, khi chín thì sắc vàng đậm, có mùi thơm đặc trưng dễ chịu.
Những bộ phận của cây mơ, nhất là quả được sử dụng làm thuốc trị ho, trị khát, sinh tân dịch, chữa đau cổ và nhiều chứng bệnh khác nữa.
Quả mơ chín sau khi thu hái, được chế biến thành ô mai (mơ đen) hay bạch mai (mơ trắng) tùy theo phương pháp chế biến. Trong thịt quả mơ có 27% axít (axít citric, axít tartric), caroten, vitamin C, vitamin B1, tanin, lycopen, pectin, peroxydase, urease... vitamin C, vitamin B1, caroten có tác dụng kích thích quá trình chuyển hóa ôxy trong tế bào làm cho tế bào chóng hồi phục, chậm lão hóa.
Các y thư cổ còn nói ô mai, bạch mai đều có vị chua, nhưng ô mai hơi chát, tính ấm, không độc, còn bạch mai hơi mặn, tính bình. Ô mai liễm phế, sáp trường, trừ phiền nóng, khô miệng, chữa bệnh ho, bệnh lỵ lâu ngày không khỏi, bệnh tê liệt, đau mình mẩy. Bạch mai thanh nhiệt giải độc, chữa đau cổ, sát khuẩn, khi dùng bỏ hột, lấy thịt sao qua.
Nước ép ô mai dùng chữa khát, trừ đờm, chữa bệnh thương hàn, phiền nóng, bệnh hư lao, nóng trong xương. Ô mai liễm phế, sáp trường tán được ác nhục, lại sát khuẩn, được dùng để chữa các bệnh tả lỵ lâu ngày.
Ngoài ra, nếu bị gai đâm vào thịt, nhai bạch mai, đặt vào nơi gai đâm thì gai tự lòi ra. Bạch mai có công dụng trừ đờm, chữa bệnh kinh giản, đau cổ, trúng phong, hàm răng cắn chặt. Lại chữa bệnh tả lỵ, bệnh phiền khát, băng huyết.
Một số bài thuốc đơn giản, linh nghiệm cụ thể có sử dụng ô mai, bạch mai và gốc rễ cây mơ như sau.
* Trị băng huyết: Lấy ô mai nhục (thịt quả) 7 quả. Đốt tồn tính. Tán nhỏ, uống với nước cơm ngày 3 lần.
* Trị đại tiện ra máu: Dùng ô mai 3 lạng, đốt tồn tính. Dùng giấm thanh nấu thành hồ, viên bằng hạt ngô. Mỗi lần dùng 20 viên. Uống lúc đói, lấy nước cơm làm thang.
* Trị chứng lỵ: Dùng 100gr ô mai, bỏ hột, sao qua, tán nhỏ. Mỗi lần uống 7-8gr với nước cơm.
* Trị hậu sản: Ô mai 20 quả, mạch môn 12gr. Cho vào 2 bát nước, sắc lấy một bát để uống liền trong ngày.
* Ho kinh niên: Dùng ô mai nhục (sao qua), anh túc xác (bỏ gân, sao mật). Hai vị bằng nhau, tán nhỏ, lúc gần đi ngủ uống 7-8gr với mật.
* Trị đại tiện không thông: Lấy gốc cây mơ, dài độ 1 tấc chẻ đôi. Cho nước sắc trong nửa giờ, uống xong hiệu nghiệm ngay.
Theo BS Hoàng Xuân Đại - Lao động
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét