Rau hẹ trị xuất tinh sớm


Rau hẹ trị xuất tinh sớm

Ăn hẹ tốt với người di mộng tinh, xuất tinh sớm, liệt dương: 0,5kg rau hẹ tươi giã lấy nước, uống ngày 2 lần...

Rau hẹ - Ảnh minh họa
Rau hẹ có tên chữ Hán là: khởi dương thảo. Tên khoa học là Allium odorum L. Theo Đông y, lá hẹ vị cay hơi chua, hăng, tính ấm, có tác dụng trợ thận, bổ dương, ôn trung, hành khí, tán huyết, giải độc, cầm máu, tiêu đờm. Sách Lễ ký viết củ hẹ trị chứng dị mộng tinh, đau lưng rất thần hiệu. Hẹ kỵ mật ong và thịt trâu. Không dùng lâu dài và với các chứng âm hư hỏa vượng, vị hư có nhiệt.
 Rau hẹ xào tôm tươi chữa di mộng tinh, xuất tinh sớm
Sau đây là một số cách dùng bổ thận cố tinh sở trường của rau hẹ:

- Ăn hẹ tốt với người di mộng tinh, xuất tinh sớm, liệt dương: 0,5kg rau hẹ tươi giã lấy nước, uống ngày 2 lần, một tuần là một liệu trình.
- Cháo hẹ chữa đau lưng, gối mỏi, ăn uống kém, phân sống nát, chân tay lạnh, nữ giới bị đới hạ, lãnh cảm: hẹ 20g, gạo 90g. Nấu cháo ăn nóng ngày  2 lần.
- Cháo hạt hẹ: hạt hẹ 15g, gạo tẻ 50g (hạt hẹ xào chín) ăn hằng ngày.
- Rau hẹ xào tôm nõn tươi: rau hẹ 200g, tôm nõn 200g, xào ăn với cơm.
- Rau hẹ xào gan dê: rau hẹ 150g, gan dê 150g, còn có tác dụng làm sáng mắt.
- Rau hẹ xào lươn: lươn 500g lọc bỏ xương cắt đoạn xào qua, gia vị, gừng, tỏi và nước vừa nấu cạn cho 300g rau hẹ cắt đoạn, xào thêm vài phút. Ăn nóng.
- Hẹ xào: hẹ 240g, hồ đào nhục (quả óc chó) 60g. Xào dầu vừng ít muối. Ngày 1 lần lúc đói hoặc vào bữa cơm trong 2 tuần - 1 tháng.
- Chữa táo bón, đau lưng gối, tiểu tiện luôn, nữ giới bị khí hư, lãnh cảm.
- Rau hẹ 39g, phúc bồn tử 1,5g, dây tơ hồng xanh 20g. Sấy khô tán bột hoàn viên. Mỗi lần 3g ngày 3 lần.
- Rau hẹ, dây tơ hồng xanh, ngũ vị tử, phúc bồn tử, câu kỷ tử, nữ trinh tử. Lượng bằng nhau. Phơi khô tán bột, mỗi lần uống 6g. Ngày uống 2 lần với nước ấm. Còn chữa chứng đi đái nhiều lần.
- Rượu thuốc Cung đình hồi xuân tửu: hạt hẹ 20g, câu kỷ 30g, ba kích 15g, hồng sâm 20g, lộc nhung lát 10g. Đường phèn 200g, rượu trắng 200g. Ngâm ít nhất nửa tháng thì dùng được.
Theo BS Phó Thuần Hương Sức khỏe & Đời sống

Triệt mụt nhọt bằng nghệ


Triệt mụt nhọt bằng nghệ

Nghệ có họ hàng với gừng và được ứng dụng rộng rãi trong dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm.

Y học dân gian của nhiều nước dùng nghệ để trị mụt nhọt rất hiệu quả mà đỡ tốn tiền mua thuốc
Ảnh minh họa
 
Mụt nhọt là một dạng nhiễm trùng da, thường do vi khuẩn Staphylococcus aureus gây nên, ban đầu chỉ là một khối u nhô lên da, sau lớn dần do chứa đầy mủ và các mô da bị chết. Mụt nhọt sẽ khỏi nếu khối dịch bên trong được xử lý.

Chế biến bằng cách lấy một chén sạch, cho một muỗng canh bột nghệ loại tốt (loại không chứa phẩm màu, hóa chất), chế từ từ dầu dừa vào trộn với bột nghệ thành khối bột nhão. Sau đó, phủ bột nhão này lên vùng da bị mụt nhọt; dùng băng y tế cố định để bột luôn tiếp xúc với mụt nhọt, không bị rớt ra ngoài.
 
Mỗi ngày làm 3 lần, mỗi lần tháo băng thì rửa lại bằng nước ấm. Đừng lo lắng khi vết thương có màu vàng của nghệ vì dần dần chúng sẽ biến mất. Sử dụng vài ngày, khối dịch trong mụt nhọt sẽ không còn. Khi mụt nhọt khô thì có thể ngưng sử dụng.
Theo DS Nguyễn Bá Huy Cường - Người lao động

Hạt vải chữa tiểu đường


Hạt vải chữa tiểu đường

Hạt vải (lệ chi hạch) thái mỏng phơi hay sấy khô được dùng làm thuốc. Trong hạt vải có tanin, độ tro, chất béo.

Theo Đông y, hạt vải vị ngọt chát, tính ôn, có tác dụng tán hàn, chữa tiêu chảy, đau răng, đau tinh hoàn và tiểu đường tuýp 2...
Phòng trị tiểu đường tuýp 2: Theo “Liêu Ninh trung y tạp chí” đã tiến hành thử nghiệm dùng hạt vải sấy khô, tán mịn cho các bệnh nhân bị tiểu đường tuýp 2 trên 40 tuổi sử dụng, ngày uống 3 lần trước bữa ăn nửa tiếng, mỗi lần 10g kết quả rất khả quan.
Trong quá trình điều trị không thấy phát sinh tác dụng phụ.
Phòng sỏi mật: Dùng hạt quýt, hạt vải mỗi thứ 20g, trần bì 10g, hồng táo 2 trái, nước 3 bát đun sôi, uống thay trà trong ngày.
Tiêu chảy ở trẻ em: Lấy 4 - 8g hạt vải đã sấy khô, tán bột mịn cho trẻ uống, hoặc sắc với nước cho trẻ uống.
Tinh hoàn sưng đau: Lấy hạt vải đốt thành than, nghiền bột mịn, hòa với rượu uống ngày 4 - 6g. Hoặc hạt vải, hồi hương, trần bì ba vị bằng nhau, tán bột mịn, ngày uống 4 - 6g.
Theo Lương y Nguyễn Văn (Hội Đông y) - Khoa học và Đời sống

Đậu đỏ chữa bệnh gan


Đậu đỏ chữa bệnh gan

Đậu đỏ không chỉ là một thực phẩm giàu dinh dưỡng mà còn là một vị thuốc chữa nhiều bệnh.

Đậu đỏ không chỉ là một thực phẩm giàu dinh dưỡng mà còn là một vị thuốc chữa nhiều bệnh. Trong đậu đỏ có nhiều protein dưới dạng albumin, lipit (chất béo) có nhiều axit béo không no, có nhiều vitamin B1, B2 và các khoáng chất quý hiếm có hoạt chất sinh học cao, có tác dụng bồi bổ cơ thể nâng cao mức đề kháng...
Trong Đông y, đậu đỏ còn được gọi là xích tiểu đậu là một vị thuốc trong Đông y có tác dụng bồi bổ cơ thể, dùng cho người hư nhược, mới ốm dậy, phụ nữ sau khi sinh nở.
Xích tiểu đậu còn là vị thuốc có tác dụng lợi thủy hành huyết tiêu sưng tấy, rút mủ. Dùng chữa các bệnh thuỷ thũng, ung nhọt, tả lỵ...
Chữa viêm gan cấp hoặc vàng da: Xích  tiểu đậu 30g, táo tầu 30g, nhân hạt lạc 30g, đường cát lượng vừa đủ nấu nhừ lên, chia 3 lần ăn trong ngày.
Chữa xơ gan cổ trướng: Đậu đỏ 200g, cá chép 300g (1 con). Cá chép làm sạch, bỏ nội tạng, vo sạch đậu đỏ, cho nước nấu thành canh, đậu mềm là được.
Ăn cá uống nước canh. Mỗi ngày hay cách ngày ăn 1 lần cho đến khi bệnh khỏi. Công hiệu lợi tiểu, chống phù thũng.
Chữa phù thũng, tiểu tiện không thông: Đậu đỏ 20g, hạt bo bo 30g, gạo 30g, đường vừa đủ. Cho đậu đỏ đã ngâm mềm vào nồi nấu sôi, hạ lửa chờ đậu mềm nhừ thì cho bo bo và gạo nấu tiếp đến nhừ cho đường vừa ngọt thành chè đậu đỏ, ngày ăn 2 lần trong nhiều ngày.
Món này có công hiệu hồi phục chức năng hệ tiêu hoá, lợi tiểu.
Lợi sữa, thông tiểu: Đậu đỏ 250g. Đậu đỏ vo sạch cho vào nồi, đổ 500ml nước nấu trong 20 phút, bỏ đậu uống nước.
Cần uống liền 3 - 5 ngày sẽ thông sữa, tiêu phù.
Chè thanh nhiệt trừ thấp: Đậu đỏ 50g, củ mài (hoài sơn) 50g, đường vừa phải.
Chữa sỏi tiết niệu: Đậu đỏ 50g, gạo tẻ 50g, màng trong mề gà (kê nội kim) 20g phơi khô tán bột, đường trắng vừa đủ.
Lấy đậu đỏ cùng gạo nấu thành chè, trộn màng gà trong mề gà đã tán bột vào, cho đường khuấy đều, ngày ăn 2 lần. Một liệu trình là 30 ngày.
Chữa đau lưng: Đậu đỏ 50g, vỏ dưa hấu 50g, rễ cỏ tranh 50g. Tất cả sắc uống chia 2 lần trong ngày, cần sử dụng vài ngày.
Chữa bế kinh, đau bụng kinh: Đậu đỏ 30g, gạo tẻ 30g, đường mạch nha vừa đủ dùng. Đậu đỏ cùng gạo nấu nhừ cho đường mạch nha vào vừa ngọt, ăn hết trong ngày.
Theo Lương y Hoài Vũ Khoa học và Đời sống

Trị tiêu chảy bằng kinh nghiệm cổ truyền


Trị tiêu chảy bằng kinh nghiệm cổ truyền

Tiêu chảy do nhiễm phải gió lạnh: Người bệnh thấy đau bụng, sôi bụng, đi ngoài nhiều lần, người lúc nóng lúc lạnh, nhức đầu.

  
Nếu diễn tiến bệnh tiêu chảy không quá trầm trọng, không bị mất nước, không bội nhiễm một số bệnh khác cùng lúc thì có thể áp dụng một số bài thuốc đơn giản theo kinh nghiệm cổ truyền.Khi bị tiêu chảy có thể dùng:
- Chè khô, gạo rang lượng bằng nhau, sắc với 3 lát gừng tươi, chia uống nhiều lần trong ngày. Uống khi nước thuốc còn ấm nóng.
- Nụ sim (thu hái khi còn chưa nở), liều lượng khoảng nửa chén sắc uống.
- Lấy một nắm búp ổi nhai với vài hạt muối nuốt cả bã.
- Dùng vỏ măng cụt sắc với nước đặc uống.
Có thể chữa tiêu chảy bằng các kinh nghiệm cổ truyền
Tiêu chảy do hàn thấp: Thường người bệnh thấy đau bụng lâm râm, đi ngoài loãng kèm nước trong, mệt mỏi không muốn ăn, uống, rêu lưỡi nhạt trắng: dùng 40g củ riềng tươi thái lát mỏng; 80g vỏ bóc từ thân cây ổi đem sao qua rồi sắc đặc cả 2 vị trên. Uống nhiều lần trong ngày thay nước chè rất tốt
Tiêu chảy do nhiễm phải gió lạnh: Người bệnh thấy đau bụng, sôi bụng, đi ngoài nhiều lần, người lúc nóng lúc lạnh, nhức đầu, phân thường lỏng: lấy 5 lát gừng, 6g tía tô, củ sả (sao vàng), vỏ quýt (sao thơm) mỗi vị 20g. Đổ 2 bát nước (bát ăn cơm) sao còn 1 bát, uống lúc còn nóng.
Tiêu chảy do thấp nhiệt: Người mắc bệnh này khi thấy đau bụng là phải đi ngoài ngay, phân có sắc vàng, mùi hôi thối, đi tiểu ít và nước tiểu có màu đỏ, khát nước nhiều, rêu lưỡi vàng. Bệnh thường gặp vào mùa hè, thu. Lấy 20g lá và bông mã đề, 40g nõn dứa (khóm, thơm) lấy đoạn trắng ở lá non của cây dứa ăn quả. Tất cả rửa sạch, giã nhuyễn rồi cho thêm ít muối. Đổ 1 bát nước sôi vào hỗn hợp thuốc, để độ nửa giờ xong gạn lấy nước uống.
Tiêu chảy do tỳ vị hư hàn: Người bệnh tinh thần mệt mỏi, kém ăn, sắc khí nhợt nhạt, tay chân lạnh, đi ngoài ra nguyên thức ăn: dùng 16g vỏ quýt, 16g gừng khô, 100g gạo cũ rang cháy sắc đặc chia uống dần. 
 
(Theo Báo Đất Việt)

Quả lựu chữa nổi mề đay, mẩn ngứa


Quả lựu chữa nổi mề đay, mẩn ngứa

Theo sách Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh, quả lựu có vị ngọt, chua, chát, tác dụng làm nhuận được họng bị khô, trừ được lao.

Cây lựu còn có tên gọi là tháp lựu, thạch lựu, an thạch lựu, đan nhược, kim bàng, kim tương, tạ lựu... là một loại cây nhỏ, thuộc mộc, cao chừng 2-3m, thân xám có vỏ mỏng, cành mảnh, lá đơn mọc đối, hình thuôn dài, mép nguyên cuống ngắn.
 
Hoa lựu màu đỏ tươi hoặc màu trắng (bạch lựu) mọc riêng lẻ, hoa thường nở về mùa hè. Quả da màu lục, khi chín màu vàng đỏ lốm đốm.
 
Trong quả có 8 ngăn xếp thành hai tầng, tầng trên có 5 ngăn, tầng dưới có 3 ngăn, phân cách nhau bởi một màng mỏng. Hạt rất nhiều, hình 5 cạnh, sắc hồng trắng, có vị ngọt, thơm.

Cây lựu được trồng ở khắp nơi để làm cảnh và lấy quả ăn. Vỏ quả lựu vị chua, chát, tính ôn, có tác dụng làm săn ruột, cầm tiêu chảy, ...  Rễ dùng sát trùng rất tốt và trị được huyết lậu.

 Quả lựu cũng là một vị thuốc
Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh:
Bài 1: Chữa nổi mày đay, mẩn ngứa do nhiệt: Vỏ quả lựu tươi, ké đầu ngựa, bèo cái, bồ công anh, thổ phục linh, hà thủ ô, mỗi loại 12 g xác ve sầu, mã đề, cam thảo đất, mỗi thứ 8g.
 
Cho tất cả vào nồi ngâm với 750 ml nước trong 15 phút, sắc còn 200 ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn. Mỗi liệu trình 3-5 ngày.
Bài 2Chữa ho do nhiễm lạnh: Hoa lựu trắng tươi 24 bông, đường phèn 15g. Cho tất cả vào nồi ngâm với 500 ml nước trong 15 phút, sắc còn 150 ml, chia 2 lần uống trước khi đi ngủ. Mỗi liệu trình 7-10 ngày.
Bài 3: Hỗ trợ trị viêm tiền liệt tuyến: Hoa lựu tươi 30g nấu canh với thịt lợn ăn hàng ngày.
Bài 4: Chữa chảy máu cam: Hoa lựu 6g, rửa sạch cho 250 ml nước, sắc còn 100 ml, chia 2 lần uống trong ngày. Mỗi liệu trình 5-7 ngày.
Bài 5Tẩy giun đũa, giun kim, giun tóc: Vỏ quả lựu 15 g; binh lang (hạt cau già) 10g. Sắc sắc 3 lần rồi cô lại còn 100ml, thêm đường đủ ngọt (20g). Uống vào buổi tối trước khi đi ngủ (sau khi ăn 3 giờ), liên tục trong 3 ngày.
Chú ý: Vỏ quả lựu cần sao khô, giã cho dập thành bột thô rồi mới sắc để rút hết chất thuốc. Hoa lựu nên thu hái khi mới nở, dùng tươi hoặc đem phơi trong bóng râm mát cho khô rồi cho vào lọ đậy kín, cất giữ nơi khô ráo để dùng dần.
 
Hoa vỏ quả và vỏ rễ thạch lựu không nên dùng cho người bị táo bón.
Theo BS Trần Thị Hải - Sức khỏe & Đời sống

Cây mía - ngọt mát mà lại thanh nhiệt chữa bệnh


Cây mía - ngọt mát mà lại thanh nhiệt chữa bệnh

Các danh y cho rằng: Mía ngọt mát, thanh nhiệt, điều hoà chức năng dạ dày, nhuận tràng, giã rượu, hạn chế giun đũa, tan đờm, tăng chất dịch, chữa sốt cao,...

Trong dân gian Trung Quốc còn lưu truyền tập tục ngày Tết đến, họ hàng bà con tặng mía với ý nghĩa từng đốt từng đốt cao lên, năm nay tốt hơn năm trước. Các danh y cho rằng: "Mía ngọt mát, thanh nhiệt, điều hoà chức năng dạ dày, nhuận tràng, giã rượu, hạn chế giun đũa, tan đờm, tăng chất dịch, dùng chữa sốt cao, kiết lị do nóng trong, trị ho do nhiệt, ợ hơi, lợi cho hầu họng, mạnh gân cốt, trừ phong, dưỡng huyết, đại bổ âm tì". 


Trên lâm sàng, Đông y thường dùng mía để điều trị các chứng khô miệng lưỡi, tân dịch thiếu, táo bón, rối loạn tiêu hoá, nôn mửa ợ hơi, khó tiểu tiện, sốt cao. Vì vậy mía được mệnh danh là "phục mạch thang" tự nhiên. Qua đó, có thể thấy tác dụng thanh nhiệt, tiêu cơm, giải độc của mía, đã được người xưa biết đến từ lâu.

Y học hiện đại qua nghiên cứu cho biết trong mía giàu prôtêin, lipit, canxi, phốtpho, sắt, vitamin, đặc biệt là hàm lượng đường khoảng 18%. Thành phần đường trong mía gồm 3 loại: xacarô, glucô và glucôza dễ được cơ thể hấp thụ, có tác dụng phòng bệnh đái tháo đường, bệnh về răng và phòng ngừa lipit máu tăng. Loại gỉ mật còn có tác dụng hạn chế tế bào ung thư.


Các bài thuốc chữa bệnh bằng mía:

- Ho do hư nhiệt: Mía vừa đủ dùng cắt vụn, đổ gạo dính vào nấu chè ăn mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng - chiều, mỗi lần 1 bát.

- Buồn nôn do thai nghén: Nước mía 1 cốc, nước gừng tươi 1 thìa, ngày uống vài lần.

- Táo bón: Nước mía, mật ong mỗi thứ 1 cốc nhỏ, trộn đều uống lúc đói, ngày 2 lần vào buổi sáng, buổi chiều.

- Khó tiểu tiện: Mía rửa sạch, thái vụn, râu ngô, xa tiền thảo, sắc uống ngày 2 lần (sáng, chiều).

- Sốt phiền khát: Mía, củ năn vừa đủ dùng: rửa sạch, thái vụn, sắc uống thay nước chè.

- Viêm dạ dày mạn tính: Nước mía 1 cốc, nước gừng một ít, trộn đều, ngày uống hai lần.

- Trẻ em ra mồ hôi trộm: Ăn mía hoặc uống nước mía vài lần trong ngày.

Ngoài ra, trong dân gian có bài thuốc từ cây mía để chữa các chứng sốt cuồng, sốt mê man… 

Lúc nhỏ, một lần tôi bị sốt cao nằm mê man. Mẹ tôi đào 2 con trùn khoang cổ, làm sạch. Bà chẻ khúc mía váng (còn gọi là mía dáng - loại mía cây to có màu vàng, thân mềm và thơm ăn rất tốt), bỏ trùn vào giữa hai mảnh khúc mía, lấy dây buộc lại hai đầu và nướng trên than hồng, khi vỏ mía vừa cháy sém thì mang ra vắt (ép) nước cho tôi uống, lát sau là hạ sốt. Hiện nay, mía váng ít thấy người trồng.

Theo Eva

Bệnh lỵ dùng rau sam


Bệnh lỵ dùng rau sam

Rau sam vị chua, tính hàn, không độc, vào đại tràng, can, thận. Tác dụng thanh nhiệt giải độc, tán huyết, tiêu thũng.

Rau sam tên khác: Mã xỉ hiện, phjăc bỉa, slổm ca. Tên khoa học: Portulaca oleracea L.

Theo Đông y: Rau sam vị chua, tính hàn, không độc, vào đại tràng, can, thận. Tác dụng thanh nhiệt giải độc, tán huyết, tiêu thũng. Dùng cho hội chứng lỵ, viêm đường tiết niệu, sỏi đường tiết niệu (đái giắt, đái buốt, đái ra huyết và cặn sỏi), mụn nhọt lở ngứa.

Liều dùng: 60 - 200g tươi (hoặc 15 - 40g khô).


Rau sam dùng để chữa một số bệnh sau:

Chữa lỵ:

- Rau sam 100g, cỏ sữa nhỏ lá 100g. Sắc với 400ml nước, chia uống 2 lần trong ngày. Nếu đi ngoài ra máu, thêm cỏ nhọ nồi 20g, rau má 20g.

- Rau sam 10g, cỏ nhọ nồi 10g, cỏ sữa 10g, lá nhót 10g, búp ổi 10g, làm thuốc bột hay làm hoàn, ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 15g.

- Rau sam 20g, cỏ sữa nhỏ lá 15g, cam thảo đất 12g, tử tô 12g, mần trầu 12g, kinh giới 12g. Dùng dạng thuốc bột hay thuốc hoàn, ngày 2 - 3 lần, mỗi lần 10 - 20g; nếu bệnh cấp tính có thể sắc uống.

Chữa giun kim: Rau sam tươi 50g, rửa sạch, giã nát vắt lấy nước. Uống vào buổi tối trước khi đi ngủ. Uống liền trong 3 ngày.

Một số món ăn chữa bệnh có rau sam:

- Cháo rau sam: Rau sam tươi 100 - 200g, gạo tẻ 100g; cho thêm nước nấu cháo ăn khi đói. Dùng cho bệnh nhân có hội chứng lỵ cấp mạn tính và các trường hợp viêm ruột, lỵ xuất huyết.

- Nước ép rau sam: Rau sam 1 bó. Giã vắt ép lấy nước khoảng 30ml, thêm nước lạnh (nước sôi để nguội) 100ml và đường trắng khuấy đều cho uống, ngày làm 3 lần. Dùng cho các trường hợp viêm sỏi đường tiết niệu, mụn nhọt, lở ngứa.

- Nước ép rau sam hoà mật: Nước ép rau sam 60 - 100ml đun vừa sôi, thêm 20ml mật khuấy đều cho uống. Dùng cho sản phụ sau đẻ đau quặn bụng, tiểu giắt buốt.

- Rau sam xào: Rau sam 250g, chiên với dầu thực vật, thêm chút muối ăn. Dùng cho các bệnh nhân có hội chứng lỵ.

Kiêng kỵ: Người hư hàn tiết tả (tiêu chảy) không dùng.

Theo BS. Phương Thảo - Sức khỏe và đời sống

Công dụng của măng cụt


Công dụng của măng cụt

Măng cụt hữu hiệu đối với những người có trọng lượng cơ thể trung bình trong việc giảm huyết áp và ngăn sự tấn công huyết áp của mạch máu đường phổi.

Măng cụt được  gồng gánh khắp phố, những quả măng cụt chín màu tím thẫm có giá từ 20.000 đồng đến 25.000 đồng/ 1 kg tùy theo sự mặc cả của người mua, kẻ bán. Măng cụt có vị ngọt thanh, từng múi trắng như sữa là thứ quả nhiều người thích ăn, nhưng nó còn có những công dụng bất ngờ.


Công dụng của măng cụt

Chống mệt mỏi: Khả năng chống mệt mỏi đã được tìm thấy ở trái măng cụt. Những người dùng măng cụt đã từng khen ngợi về sự tăng cường sinh lực một cách an toàn và cảm thấy khỏe khoắn trong người. 

Giảm huyết áp: Huyết áp cao là một trong những nguyên nhân dẫn đến chứng xơ vữa động mạch. Những cặn lắng nguy hiểm thường làm hẹp đường lưu thông máu trong các động mạch khiến gia tăng nguy cơ bị đau tim và đột quỵ. Măng cụt đã tỏ ra hữu hiệu, nhất là đối với những người có trọng lượng cơ thể trung bình, trong việc giảm huyết áp và ngăn sự tấn công huyết áp của mạch máu đường phổi. 

Giảm hơi thở hôi: Kháng thể Xanthones trong trái măng cụt có khả năng diệt khuẩn. Do đó khi ăn hoặc súc miệng bằng nước măng cụt sẽ làm giảm hơi thở hôi trong miệng. 

Giữ cân bằng trong dạ dày: Một trong những hậu quả của sự lão hóa là suy giảm tự nhiên chất acid trong dạ dày, dẫn đến sự tăng vi trùng trong dạ dày và gây ra chứng tiêu chảy, đau quặn bụng, ợ hơi và không thể hấp thụ đủ chất dinh dưỡng. Kháng thể Xathones trong trái măng cụt đã chứng tỏ khả năng tiêu diệt sự sinh sôi quá độ của vi khuẩn để cải thiện và tái lập sự cân bằng trong dạ dày. 

Làm dịu chứng hen suyễn: Măng cụt chính là một lựa chọn lý tưởng vì măng cụt có khả năng chống nhiễm trùng, ngăn chứng viêm và giảm thiểu dị ứng khởi phát một cách tự nhiên.


Chống và ngăn ngừa bệnh tiểu đường: Chứng viêm kinh niên là một trong những căn nguyên hàng đầu dẫn đến bệnh tiểu đường tuýp 2; măng cụt là loại trái cây tự nhiên có khả năng chống viêm cho nên nó có thể giúp chúng ta ngăn ngừa bệnh này. Với khả năng làm giảm và điều hòa lượng đường trong máu, tăng sinh lực và làm giảm nhu cầu thuốc men, măng cụt có thể là câu trả lời cho bệnh tiểu đường. 

Có lợi cho hệ thống thần kinh: Hiện tượng lão hóa đối với não bộ là một nguyên nhân chính yếu của các bệnh lý thần kinh, đãng trí, tay chân run lẩy bẩy và những bệnh khác có liên quan đến trung khu thần kinh. Măng cụt là một trong những thứ hữu hiệu nhất để chống lão hóa, cho nên nó được xem như có hiệu quả trong việc phòng ngừa sự thoái hóa của thần kinh. 

Giúp hưng phấn tinh thần: Măng cụt có khả năng giúp cho người sử dụng có một cảm giác hoàn toàn thư thái trong lòng. Ngoài ra trong trái măng cụt còn có Trytophan acid - chất này có liên hệ trực tiếp với serotonin, một chất dẫn truyền thần kinh có liên hệ mật thiết với giấc ngủ, tâm trạng vui buồn và khẩu vị. 

Cải thiện làn da: Các chứng bệnh ngoài da như chàm (eczema), viêm da, mụn trứng cá, vẩy nến, và chứng ngứa thường được điều trị bằng Steroids và các loại kem chống nấm. Sử dụng nước măng cụt bôi rửa ngay trên vùng da đang bị tổn thương cho thấy các chứng bệnh ngoài da kể trên đã điều trị tự nhiên mà không cần thuốc men và không sợ bị phản ứng phụ như khi sử dụng dược phẩm. 

Giảm cholesterol: Khi cholesterol xấu bị lão hóa sẽ sinh ra những mảng bám trong mạch máu. Các công trình nghiên cứu cho thấy kháng thể Xanthones trong măng cụt có tác dụng làm giảm tác dụng gây lão hóa của cholesterol xấu và ngăn ngừa sự hình thành các mảng bám nguy hiểm.


Chọn mua măng cụt

Măng cụt nếu quan sát kỹ bạn sẽ thấy thông thường có hai loại: 1 loại có vỏ màu tím thẫm, 1 loại vỏ có màu rám nâu. Khi chọn măng cụt loại có vỏ màu rám nâu sẽ ngọt hơn. Khi chọ măng cần chú ý 3 điểm:

Vỏ: Cần chọn quả có vỏ mềm đều, không chọn quả có vỏ cứng và quá sần sùi, hay vỏ bị mềm do dập, ngoài vỏ chai cứng chỗ nào thì trong ruột nó cũng bị hỏng ngay chỗ đấy.

Cuống và hoa thị: Nên chọn loại quả có cuống tươi, không bị héo úa và thâm đen, các cánh xung quanh cuống tươi xanh, không bị khô quắt và đổi  màu. Hoa thị là phần những cánh hoa nằm ở phần dưới quả. Các hoa thị thường chia không đều nhau và có bao nhiêu hoa thị thì quả măng có bấy nhiêu múi. Nên lựa quả có nhiều hoa thị, hoa nhiều thì múi sẽ nhiều và ít hạt hơn.

Quả nhỏ, tròn đều: Theo kinh nghiệm bạn nên lựa những quả măng nhỏ vừa, đừng nên chọn quả quá to, cầm chắc tay ấn nhẹ vào vỏ thấy vừa mềm không cứng, xoay tròn quả thấy tròn đều không bị vẹo, quả măng đó là quả ngon.


Theo Mai Nương - TapchiMonngon

Phương thuốc chữa phù thũng bằng mã đề nước


Phương thuốc chữa phù thũng bằng mã đề nước

Trong Đông y vị thuốc từ mã đề nước gọi là trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, vào các kinh thận, bàng quang

Mã đề nước còn có tên gọi khác là hẹ nước, vợi. Là cây cỏ thủy sinh, mọc trong ao hồ. Gốc và rễ ngập trong bùn. Thân ngắn hoặc không có thân. Lá mềm hình bầu dục, mọc thành cụm ở gốc. Hoa lưỡng tính mọc trên cuống dài, màu trắng, tím nhạt hoặc trắng đục. Quả hình cầu. Cây thường mọc thành đám ruộng ở các ao hồ nước nông, kênh rạch, bờ suối, ruộng trũng có nước quanh năm. Mã đề nước không chỉ dùng làm rau ăn (thân và lá rửa sạch, luộc qua rồi xào hoặc nấu canh ăn) mà còn là vị thuốc tốt. Bộ phận dùng làm thuốc là lá, thân rễ (thường gọi là củ) bỏ hết rễ, rửa sạch rồi phơi sấy khô. 

Theo Tây y, mã đề nước có tác dụng giảm mỡ máu, hạ huyết áp, chữa béo phì và tăng huyết áp. Còn trong Đông y vị thuốc từ mã đề nước gọi là trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, vào các kinh thận, bàng quang. Có tác dụng  thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi niệu, long đờm dùng chữa các bệnh: phù thũng do thận, ho do viêm họng, giúp mát gan, lợi tiểu...

Chữa phù thũng do thận: Lá trạch tả 30g, thân cây sậy 100g, râu ngô 100g. Sắc với 3 bát nước, còn 1 bát chia uống hai lần trong ngày. Uống sau bữa ăn trưa và tối. Dùng trong 7-10 ngày. Hoặc trạch tả, bạch phục linh, trư linh, hạt mã đề mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Mã đề nước

Chữa ho do viêm họng: Lá trạch tả 30g, lá húng chanh 30g, gừng tươi 5g. Sắc khoảng 300ml nước còn 50ml. Uống trong ngày, nên uống khi thuốc còn ấm. Uống trong 5 ngày.

Giúp mát gan: Trạch tả, bạch phục linh, mẫu đơn bì, sơn thù du, mỗi vị 10g, thục địa và hoài sơn mỗi vị 12g. Tất cả sao vàng, tán bột chế thành viên bằng hạt đỗ xanh. Ngày uống 8 - 10 viên. Uống trong 10 ngày.

Chữa mụn nhọt sưng đau (chưa mưng mủ): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 15g. Rửa sạch, để ráo, giã nát đắp nơi mụn nhọt sưng đau. Ngày đắp 2 lần. Thực hiện trong 2 ngày.

Chữa chứng hoa mắt, chóng mặt do thiếu máu: Trạch tả 12g, sinh địa 15g, long đởm thảo, sơn chi tử, hoàng cầm, sài hồ, mẫu đơn bì, tri mẫu, cúc hoa mỗi vị 10g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Hoặc trạch tả 15g, bạch truật 6g, cúc hoa 12g. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát. uống trong ngày. Dùng trong 7-10 ngày.

Chữa bỏng da thể nhẹ (vết bỏng nhỏ và nông): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 30g, rửa sạch,  giã nát đắp hoặc chườm nhẹ nơi có vết bỏng. Ngày làm 2 lần. Bài thuốc này giúp giảm đau và nhanh hồi phục khi bị bỏng.

Giúp hạ sốt do cảm nóng: Lá trạch tả 20g, cỏ mần trầu 25g, lá tre 30g. Các vị thuốc trên đem sắc với 3 bát nước còn 1 bát. Uống trong ngày khi thuốc còn ấm. Dùng trong 2 ngày.

Theo Bác sĩ Hoàng Minh - Sức khỏe & đời sống

Hoa hồng đỏ cầm máu, chữa viêm họng


Hoa hồng đỏ cầm máu, chữa viêm họng

Nếu bị lở miệng, viêm họng hay băng huyết, bạn có thể cải thiện tình trạng bệnh bằng một vị thuốc thơm mát, đó là hoa hồng đỏ.

Hoa hồng được dùng làm thuốc theo kinh nghiệm dân gian. Dược liệu có mùi thơm, mát, không độc, thường được dùng trong những trường hợp sau:

Chữa băng huyết: Lấy 20 gr cánh hoa hồng mới nở, ngâm với một lít nước sôi trong bình sành hoặc sứ có nắp đậy kín, trong khoảng 30 phút. Khi nước đã có màu đỏ, đem lọc rồi cho 50 gr đường vào khuấy tan. Mỗi lần uống 200 - 250 ml, uống đều đến khi máu cầm thì thôi.


 
Chữa rộp lưỡi, loét miệng, lở mồm: Ngâm 50 gr bột hoa (hoa sấy khô), tán nhỏ với 25 ml rượu trắng trong 24 giờ. Đem đun nhỏ lửa cho rượu bay đi, đến khi còn lại cắn sền sệt là được. Cho 30 gr mật ong vào đun nhẹ, quấy đều rồi để nguội. Dùng tăm bông sạch chấm thuốc bôi vào chỗ rộp loét, ngày 2 - 3 lần.

Mật ong - hoa hồng đỏ nếu đem pha loãng với nước đun sôi để nguội (tỷ lệ hai thứ bằng nhau) và thêm vài hạt muối hoặc ít hàn the còn là thuốc súc miệng chữa viêm họng rất tốt.

Chữa tiêu chảy: Bột hoa hồng đỏ 15 - 20 gr uống mỗi ngày sau bữa ăn. Có thể phối hợp với các thứ thuốc khác như chè, gừng…

Theo tài liệu nước ngoài, nụ hoa hồng đỏ sắp nở được dùng chữa kinh nguyệt không đều dưới dạng nước sắc. Tinh dầu hoa hồng đỏ 1 - 2 giọt cho vào nước tắm có tác dụng chữa mất ngủ.

Theo DS Hữu Bảo - Báo Đất Việt

Chuẩn bị cho ngày tết Các bài thuốc dân gian


Chuẩn bị cho ngày tết  Các bài thuốc dân gian

Tết là những chuỗi ngày ăn và uống triền miên nên dễ mắc các bệnh vặt về đường tiêu hóa.

Sau đây là một số các món ăn bài thuốc dân gian có thể cải thiện tình hình trên.
Món ăn với ngải cứu - Vị thuốc quý dễ tìm cho nhiều người
- Trứng gà tráng ngải cứu: Giúp lưu thông máu lên não trị bệnh đau đầu. Lấy một nắm lá ngải cứu, xắt nhỏ, đánh tan đều với 1 quả trứng gà, nêm hạt nêm vừa miệng, đổ vào chảo chiên chín.
- Gà tần ngải cứu: Bồi bổ sức khỏe, hoạt huyết, xương cốt dẻo dai: 1 con gà đen khoảng 500gr, 3 trái táo đỏ, ý dĩ, kỷ từ, 3 lát sâm ta, ngải cứu, hạt sen, tam thất, hạt nêm. Gà làm sạch, mổ moi, nhồi tất cả các nguyên liệu vào trong gà, cho gà vào nồi, đổ săm sắp nước, nêm hạt nêm vừa miệng, tần cho đến khi gà mềm nhừ.
Gừng
Gừng sống có vị cay, nóng, mùi thơm, tính ấm. Gừng tươi chữa dị ứng, mẩn ngứa do ăn cua, cá, thịt chim, thú độc, hoặc do uống vị thuốc bán hạ. Dùng bài thuốc gồm gừng sống và hành trắng, mỗi vị 15-20g cho vào ấm đậy kín, sắc lấy nước uống nóng.
Tỏi, thì là
Tỏi vị cay, tính ấm. Để chữa ngộ độc thức ăn gây tiêu chảy, dùng tỏi 100g sắc với 300ml nước còn 100ml cho uống.
Thì là vị cay tính ấm, có tác dụng làm ấm tỳ vị. Để giải ngộ độc thức ăn tanh, cua, cá, giúp tiêu hóa chữa nôn, đầy bụng, dùng quả (ta thường gọi là hạt) thìa là 3-6 g nhai nuốt. Lá thìa là được dùng làm gia vị nấu với cá, hến, ốc cho thơm ngon, làm bớt tanh, đề phòng tiêu chảy.
Cà rốt
Giải độc bia, rượu; trị chứng đầy hơi
Nguyên liệu: dùng 50gr hạt cà rốt nấu với 1 lít nước, nấu sôi trong 15 phút, để uống cả ngày. Ngoài công dụng giải độc bia, rượu, trị chứng bụng đầy hơi, cách dùng trên còn có tác dụng điều hòa kinh nguyệt ở phụ nữ và giúp lợi tiểu.
Lưu ý: không dùng hạt cà rốt lúc đang mang thai.
Lòng trắng trứng gà sống
Chất cồn trong rượu gặp chất protein trong trứng gà sẽ ngưng tụ mà lắng xuống, giải vây cho dạ dày, tránh cho niêm mạc của dạ dày khỏi sự tấn công của cồn. Do đó, khi thấy dấu hiệu say rượu, hãy uống ngay một chút lòng trắng trứng gà sống.
Rễ mướp hầm thịt nạc
Rễ mướp 300g, thịt heo nạc 200g, muối vừa đủ. Rễ mướp rửa sạch, cắt khúc. Thịt heo rửa sạch, thái miếng mỏng. Cho rễ mướp vào nồi nước sôi nấu chín, cho tiếp thịt vào, nêm muối hầm kỹ là được. Có tác dụng chữa nhức đầu, chóng mặt, chống say xe.
Rau cần xào trứng gà
Rau cần 80g, trứng gà 1 quả. Rau cần rửa sạch, thái đoạn. Cho rau cần vào chảo xào, đập trứng trộn lẫn, đảo tiếp đến khi chín. Có tác dụng chữa nhức đầu, chống say xe.
Theo Internet

Giảm béo bằng rau càng cua


Giảm béo bằng rau càng cua

Rau càng cua tuy cung cấp nhiều chất nhưng lại ít năng lượng, thích hợp cho người giảm béo, còn được dùng làm vị thuốc.

Vị chua chua ngọt ngọt của dầu giấm quyện vào mùi thơm của thịt bò xào, vị béo ngậy của trứng và mùi hăng hăng đặc trưng của mớ rau càng cua mọc sau hè là món ăn khó quên...
Rau càng cua (Peperomia pellucid) họ hồ tiêu - Piperaceae. Rau thuộc loại thảo, thân chứa nhiều nước hơi nhớt, nhỏ và nhẵn, lá hình trái tim nhọn có màu xanh trong. Hoa mọc thành chùm dài ở đầu cây. Thuộc nhóm cây thân cỏ, sống thích hợp ở những nơi ẩm ướt, dưới chân tường, trên đá, thường khai hoa vào tháng giêng hay tháng 8 âm lịch, sức sống mạnh, hạt rất nhỏ nên dễ phân tán nơi xa, khi gặp điều kiện thích hợp sẽ lên cây và lan rộng ra.
Vị mặn, ngọt, chua, lẫn giòn giòn, dai dai của rau làm thành món rau trộn rất ngon. Rau càng cua còn có thể trộn chung với các loại rau khác như rau sam, rau thơm..., chấm với nước cá kho hay thịt kho. Chính vị chua chua của loại rau này khi chấm với nước kho mặn sẽ tạo cảm giác rất ngon miệng. Là loại rau giàu dinh dưỡng, đặc biệt beta-caroten (tiền vitamin A), nên thường được chế biến thành nhiều món ăn dân dã bổ dưỡng.
Ảnh: Hạ Huy
 
Theo lương y Nguyễn Phước Thành, rau càng cua tuy cung cấp nhiều chất nhưng lại ít năng lượng, thích hợp cho người giảm béo, còn được dùng làm vị thuốc. Trong rau chứa nhiều chất sắt, giúp bổ sung cho người thiếu máu do thiếu sắt.
 
Các chất kali, magiê trong rau tốt cho tim mạch và huyết áp cũng như góp phần trong việc chữa bệnh đái tháo đường, táo bón, cao huyết áp...
 
Ở các nước phương tây, người ta xem rau càng cua như một thứ cỏ dại. Người ta có thể nghiền lá ra dùng đắp trị sốt rét, đau đầu, dịch nhầy từ lá dùng uống trị đau bụng.
 
Tại Trung Quốc, toàn cây rau này được dùng làm thuốc trị đau nhức khớp, đòn ngã và được vò nát đắp lên da trị phỏng do lửa hoặc nước sôi.
 
Theo Đông y, rau càng cua vị đắng, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, tan máu ứ; thường dùng để chữa các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, viêm ruột thừa, viêm gan, viêm dạ dày - ruột, tiêu hóa kém.
 
Ngoài ra rau còn được dùng ngoài chữa rắn cắn, nhọt lở, chấn thương sưng đau, có tác dụng chữa trị bệnh ngoài da rất tốt, nhất là bệnh ghẻ lở (giã nát, vắt lấy nước, bổ sung chút muối và chấm vào vết thương; da sẽ mau lành, liền miệng). Cần tham khảo thêm ý kiến nhà chuyên môn khi sử dụng.
Lưu ý: trong khi sử dụng không được để nhựa mủ cây rau này bắn vào mắt.
Theo Minh Quân Thanh Niên

Củ mài chữa di tinh


Củ mài chữa di tinh

Các quý ông đang "đau đầu" vì chứng di tinh hay đau lưng suy yếu có thể tham khảo một cách cải thiện bằng Đông y: dùng củ mài.

Củ mài, khoai mài, thuộc họ Củ nâu. Cây dang dây  leo quấn; thân nhẵn. Rễ củ đơn độc hoặc từng đôi, ăn sâu vào đất đến cả mét. Lá mọc so le hay mọc đối. Cụm hoa đơn tính.  Quả nang có 3 cánh rộng 2cm. Rễ củ, thường gọi là Hoài sơn, được dùng để làm thuốc.
Củ mài
Chữa trẻ em tiêu chảy kéo dài, phụ nữ bạch đới, nam giới di tinh, đau lưng suy yếu: Dùng củ mài 200 gr, củ súng, hạt sen, ý dĩ sao, đều 100 gr, sấy khô tán bột uống mỗi ngày 20 gr với nước cơm.
Chữa trẻ em gầy yếu, biếng ăn, phụ nữ có mang mỏi mệt chán cơm hay người có bệnh đái đường gầy: Dùng hoài sơn thái miếng đồ lên, sao già tán bột, uống mỗi lần 6-10 gr; ngày uống 2-3 lần vào giữa buổi lúc đói.
Thuốc bổ dưỡng: Hoài sơn, quả tơ hồng, hà thủ ô, huyết giác, đỗ đen sao cháy mỗi loại 1 kg, vừng đen 300 gr, ngải cứu 200 gr, gạo nếp rang 100 gr, muối rang 5 gr, tán bột, làm viên, uống mỗi ngày 10-20 gr. 
 
Theo Lương y Nguyễn Nam - Báo Đất Việt

Cây ngải cứu chữa viêm xoang


Cây ngải cứu chữa viêm xoang

Cây ngải cứu dùng trong châm cứu hoặc xông khói, chữa viêm họng, viêm xoang, trị nhức đầu rất tốt.

Tên khoa học Artemisia Vulgaris. Còn có tên gọi khác là ngải cứu, ngải nhung, thanh diệp hành. Thuốc cứu thuộc loại hoa kiểng hoang, khi phát hiện có công hiệu y dược, các nhà bào chế thuốc bắt đầu trồng thuốc cứu ở vườn nhà, vườn thuốc.
 
Lá thuốc cứu thường tỏa mùi thơm nồng vào buổi tối. Được thu hái lúc chưa trổ hoa, nấu cao hoặc sao khử thổ, tán nhuyễn cô đặc thành bánh, dùng sử dụng trong châm cứu hoặc xông khói, chữa viêm xoang mũi, họng, trị nhức đầu rất tốt. 

Mặt khác, lá thuốc cứu còn có tinh dầu tanin với các hoạt chất như: methatuyon, cyneolamin. Thuốc cứu vị đắng, thơm nồng hăng hắc, tính ấm, có thể dùng lá tươi giã nát, thêm 1/3 muỗng cà phê muối đắp lên vết thương, cầm máu nhanh, giảm đau nhức (vắt lấy nước cốt, uống ổn định kinh nguyệt đối với phụ nữ chưa qua thai kỳ).

Sau đây là những đơn thuốc: 

- Đi lỵ ra máu, thân nhiệt nóng, viêm xoang mũi, chảy máu cam, phụ nữ bị sản hậu, băng huyết: Dùng 200gr lá thuốc cứu sao vàng, nấu trong 250ml nước còn 100ml. Chia làm 2 phần, uống trong ngày. Có thể tán nhuyễn, hãm 50ml nước sôi với 10gr thuốc cứu bột, uống mỗi lúc khát, liên tục 2 ngày.

- Đau thần kinh tọa, nhức buốt khớp xương chân tay, các đốt xương cột sống, đau đầu hoa mắt, ghẻ lở do nghiện rượu, ngộ độc rượu lạ: Dùng 300gr thuốc cứu rửa sạch, giã nát, thêm 2 muỗng mật ong (ruồi, nghệ), vắt lấy nước uống trưa, chiều. Liên tục 1-2 tuần. 

- Cơ thể suy nhược, trẻ gầy còi xương, biếng ăn, người già ăn không ngon miệng, bỏ ăn: Dùng 250gr thuốc cứu, 2 quả lê, 20gr câu kỷ tử, 10gr đinh quy, 1 con gà ri (gà ác) 150gr, hầm trong 0,5 lít nước (thêm gia vị, bột nêm) còn 250ml. Chia làm 5 phần, ăn cả ngày. Liên tục 1-2 tuần. 

- Thời tiết thay đổi, cảm cúm, ho, đau cổ họng, nhức hai bên thái dương, dây thần kinh cổ, gáy: 300gr thuốc cứu, 100gr lá khuynh diệp, 100gr lá bưởi (hoặc quýt, chanh). Nấu trong 2 lít nước. Sôi 20 phút nhắc xuống, xông 15 phút. Cách thứ 2: Nấu lá thuốc cứu với 100gr lá tía tô, 100gr tần dầy lá, 50gr lá sả trong 1 lít nước còn 0,5 lít. Uống mỗi lúc khát, liên tục 3-5 ngày.

Theo Đông y sĩ Kiều Bá Long - Thanh Niên

Cây mùi tàu trị ăn không tiêu


Cây mùi tàu trị ăn không tiêu

Nếu bị đầy hơi, ăn không tiêu, sổ mũi do nhiễm lạnh... bạn có thể dùng cây mùi tàu để cảm thấy dễ chịu hơn.

Cây mùi tàu được dùng làm rau gia vị, ăn sống hoặc nấu canh. Theo Đông y, mùi tàu có vị the, tính ấm, mùi thơm hơi hắc, công dụng kích thích tiêu hóa, mạnh tì vị, khử độc, giải khí trướng, khử thấp nhiệt, trừ hàn tà…


Trị chứng ăn không tiêu: Khi bị lạnh bụng, ăn không tiêu, đầy trướng bụng thì lấy 50 gr rau mùi tàu rửa sạch, thái nhỏ, một củ gừng tươi nhỏ rửa sạch giã nát. Hai thứ trên cho vào niêu đất, đổ ba bát nước (bát ăn cơm) sắc khi còn một bát chia uống hai lần trong ngày. Mỗi lần uống cách nhau bốn giờ.

Trị chứng chướng khí, thở mệt: Lấy rau mùi tài tươi rửa sạch, phơi khô nơi thoáng mát. Mỗi lần sắc 30 - 40 gr với hai bát nước còn 2/3 bát thì chia uống làm hai lần.

Trị chứng đầy hơi: Khi bị đầy hơi, cảm sốt lấy 10 - 16 gr rau mùi tàu rửa sạch, vò nát, hãm như hãm chè tươi, chia uống nhiều lần trong ngày.

Trị chứng sổ mũi, sốt nhẹ do nhiễm lạnh: Lấy 20 gr rau mùi tàu rửa sạch, thái khúc, 30 gr thịt bò băm nhỏ, vài lát gừng tươi. Đem nấu chín với 400 ml nước. Món này ăn nóng. Khi ăn cho thêm ít hạt tiêu. Sau khi ăn xong, đắp chăn kín cho ra mồ hôi sẽ khỏi.

Theo BS Nguyễn Thị Nhân - Báo Đất Việt

Cây huyết dụ chữa trĩ và rong kinh


Cây huyết dụ chữa trĩ và rong kinh

Nếu bị chảy máu do bệnh trĩ, bệnh lỵ, hay rong kinh, băng huyết, cây huyết dụ có thể giúp cầm máu và cải thiện bệnh.

Cây huyết dụ thường được trồng làm cảnh. Có hai loại cây huyết dụ. Một loại lá đỏ cả hai mặt và một loại lá đỏ một mặt, còn mặt kia lá có màu xanh. Cả hai loại đều được Đông y dùng làm thuốc. Theo Đông y, huyết dụ có vị nhạt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng bổ huyết, tiêu ứ, cầm máu dùng chữa chứng kiết lỵ, rong kinh, phong thấp nhức xương, xích bạch đới...

Phụ nữ trước khi sinh con và sau khi sinh mà bị sót nhau thì không được dùng thuốc có vị huyết dụ.
 
Cây huyết dụ
 
Rong kinh: Lấy 20 gr lá huyết dụ, 10 gr rễ cỏ tranh, 10 gr đài tồn tại trên quả mướp, 10 gr rễ gừng. Tất cả mang thái nhỏ sắc với 400 ml nước còn 100 ml. Chia uống làm hai lần trong ngày.

Trĩ ra máu, đái ra máu, băng huyết: Lấy 20 gr lá huyết dụ tươi rửa sạch. Đổ 200 ml nước vào sắc còn 100 ml, chia uống trong ngày.

Chảy máu cam, cháy máu dưới da: Lấy 30 gr lá huyết dụ tươi, 20 gr cỏ nhọ nồi, 20 gr lá trắc bá (sao cháy) sắc kỹ uống đều đến lúc khỏi.

Kiết lỵ ra máu: Lấy 20 gr lá huyết dụ, 12 gr cỏ nhọ nồi, 20 gr rau má. Rửa sạch, giã nát, thêm ít nước sôi để nguội, gạn lấy nước thuốc uống. Dùng 2 - 3 ngày, nếu không giảm thì đến khám bệnh để được điều trị dứt điểm.


Phong thấp đau nhức, bị thương ứ máu: Lấy 30 gr hoa, lá, rễ cây huyết dụ, 15 gr huyết giác. Sắc uống đến lúc có kết quả.

Ho ra máu: Lấy 16 gr lá huyết dụ, 16 gr lá trắc bá sao đen. Đổ 400 ml nước sắc còn 200 ml chia uống làm 2 - 3 lần trong ngày. 

Theo BS Nguyễn Thị Nhân - Báo Đất Việt

Cây kiến cò trị đau nhức khớp


Cây kiến cò trị đau nhức khớp

Cây kiến cò có vị ngọt dịu và dịu, tính bình, có công dụng sát trùng, chống ngứa, trừ phong thấp.

Kiến cò còn có tên khác là nam uy linh tiên, bạch hạc, là cây nhỏ mọc thành bụi, cao 1-2m, có rễ chùm. Thân non có lông mịn. Lá mọc đối, có cuống, phiến hình trứng thuôn dài, mặt trên nhẵn, mặt dưới hơi có lông mịn. Hoa nhỏ, mọc thành xim nhiều hoa ở nách lá hoặc đầu cành hay ngọn thân. Hoa màu trắng nom như con hạc đang bay nên có tên gọi là bạch hạc. Quả nang dài, có lông. Cây ra hoa tháng 8.
 
Theo y học cổ truyền, cây kiến cò có vị ngọt dịu và dịu, tính bình, có công dụng sát trùng, chống ngứa, trừ phong thấp. Ngày uống 10-15g dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác. Rễ có thể rửa sạch, ngâm trong rượu, dấm để làm thuốc trị bệnh nấm da.
 
Cây kiến cò
 
Chữa eczema, hắc lào, lang ben: Rễ cây kiến cò 50g, thái nhỏ, giã nát; cồn etylic 70 độ 100ml. Ngâm rễ cây kiến cò đã được giã nát trong vòng 1-2 tuần, sau đó lọc qua vải xô, lấy dịch thuốc bôi vào vùng da bị hắc lào, lang ben  ngày 2 lần đến khi khỏi.

Đau thần kinh tọa do lạnh: rễ cây kiến cò 8g, rễ lá lốt 12g, ráy sơn thục 12g, cẩu tích 16g, quế chi 8g, ngải cứu 8g, vỏ quýt 8g, rễ cỏ xước 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Bài này giúp khu phong tán hàn, hành khí hoạt huyết, giảm đau. Uống 10 - 15 thang.

Trị đau nhức khớp do phong hàn thấp (với biểu hiện đau mỏi các khớp; đau tăng khi thời tiết lạnh, mưa, ẩm thấp): Rễ cây kiến cò 12g, thổ phục linh (củ khúc khắc) 16g, ké đầu ngựa 16g, hy thiêm 16g, kim ngân hoa 16g, quế chi 8g, bạch chỉ 8g, tỳ giải (củ cây kim cang) 12g, ý dĩ 12g, cam thảo nam 12g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Uống 10-20 thang.   
    
Theo BS. Thu Vân - Sức khỏe & Đời sống

Bọ cạp trị trúng phong


Bọ cạp trị trúng phong

Theo Đông y, bọ cạp vị mặn, hơi cay, tính bình, có độc; vào kinh can. Có tác dụng tức phong, cắt cơn kinh giật; lưu thông gân, mạch và giải độc.

Bọ cạp còn gọi là toàn yết, yết tử, toàn trùng, yết vĩ. Theo Đông y, bọ cạp vị mặn, hơi cay, tính bình, có độc; vào kinh can. Có tác dụng tức phong, cắt cơn kinh giật; hoạt lạc (lưu thông gân, mạch) và giải độc.

Một số bài thuốc trị bệnh có bọ cạp:

Tức phong, cắt cơn kinh giật: Dùng cho các chứng bệnh lên kinh giật, co quắp do bị trúng phong, sài uốn ván; động kinh thuộc chứng thực.

 Bọ cạp
- Thuốc bột toát phong: Bọ cạp 4g, chu sa 4g, rết 6g, xạ hương 2g, câu đằng 16g, tằm vôi 8g. Tán thành bột. Mỗi lần uống 4g, ngày 2 - 3 lần, uống với nước đun sôi. Trị động kinh và sài giật uốn ván.
- Bọ cạp 4g, tằm vôi 12g, bạch phụ tử 12g. Nghiền chung thành bột mịn. Mỗi lần uống 4g, ngày 2 - 3 lần, uống với rượu trắng. Trị trúng phong mắt miệng méo sệch.

- Bọ cạp 1 con, rết 1 con, thấu cốt thảo 15g. Tất cả sao vàng tán bột. Cách 6 giờ uống 7 – 8g. Chữa trúng phong.

- Bọ cạp 10g, giun đất 15g, xích thược 20g, ngưu tất 20g, hồng hoa 15g. Sắc uống trong ngày. Chữa trúng phong.

- Bọ cạp tồn tính 15g, bạch cương tằm 15g, phụ tử 15g. Tán bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g với nước sôi để nguội. Trị tê liệt thần kinh mặt.

- Bọ cạp 1 con, giun đất 8g, tằm vôi 12g. Sắc uống. Trị trẻ kinh quyết.


- Bọ cạp sao giòn 12g, răng lợn đốt cháy 12g, kinh giới 40g, câu đằng 12g, thuyền thoái 8g, phèn phi 8g. Tán nhỏ mịn, luyện với hồ làm viên bằng hạt đỗ xanh. Trẻ em 5 - 6 tháng tuổi, mỗi lần uống 2 viên; 1 tuổi uống 3 viên; 2 năm tuổi uống 5 viên. Nghiền thuốc với nước ép của cây tre non nướng. Ngày 2 - 3 lần. Chữa trẻ lên cơn kinh giật, nghiến răng, trợn mắt.

Hoạt lạc giảm đau: Trị các chứng phong thấp, đau cứng khớp xương.

- Bọ cạp 4g, xạ hương 0,8g. Nghiền chung thành bột mịn, trộn đều. Mỗi lần uống 2g, uống với rượu hâm nóng. Cũng có thể dùng riêng bọ cạp nghiền bột, mỗi lần uống 2g với rượu.

- Thuốc bột bọ cạp nhũ hương: Xuyên ô đầu chế 12g, mã lan tử 8g, bọ cạp 4g, vẩy tê tê 8g, nhũ hương 6g, thương truật 12g. Nghiền thành bột. Mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần với nước đun sôi. Cũng có thể sắc uống hoặc làm cao dán ngoài da.

Kiêng kỵ: Người bị kinh giật do huyết hư, phụ nữ có thai và người yếu mệt háo khát thì cấm uống.

Lưu ý: Khi chế biến bọ cạp phải bỏ nọc độc ở đuôi vì nó gây tê liệt các bộ phận của cơ thể người và gia súc.    

  Theo TS. Nguyễn Đức Quang - Sức khỏe & đời sống

Cây sả chữa bệnh


Cây sả chữa bệnh

Theo Đông y, sả có vị the, cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng làm ra mồ hôi, sát khuẩn, chống viêm, hạ khí, thông tiểu, tiêu đờm …

Cây sả còn gọi là cỏ sả, lá sả, hương mao. Là loại cỏ sống lâu năm, mọc thành bụi. Thân rễ trắng hay hơi tím. Lá hẹp, dài giống như lá lúa, mép hơi nháp. Toàn cây có mùi thơm đặc biệt. Cây sả được trồng khắp nơi ở nước ta, nhân dân trồng cây sả quanh nhà ngoài vườn, xung quanh nhà vệ sinh để xua đuổi ruồi, muỗi, dĩn, bọ chét vừa làm sạch môi trường, vừa có tác dụng phòng bệnh. Ngoài ra, tinh dầu sả còn khử mùi hôi trong công tác vệ sinh. 
Ngoài được dùng làm rau ăn, gia vị (nhân dân thường dùng ăn sống hoặc tẩm ướp cho thơm các món ăn) cây sả còn là vị thuốc chữa bệnh rất hữu hiệu. Bộ phận dùng làm thuốc là lá, rễ sả dùng tươi, phơi hay sấy khô.
Theo Đông y, sả có vị the, cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng làm ra mồ hôi, sát khuẩn, chống viêm, hạ khí, thông tiểu, tiêu đờm để chữa đầy bụng, đái rắt, chân phù nề, chữa ho do cảm cúm...

Đơn thuốc sử dụng cây sả chữa bệnh:
Lá sả: (Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác để chữa bệnh).
Trị chứng đầy bụng: Lá sả, vỏ bưởi, hồi hương, trạch tả, mộc thông, cỏ bấc, mỗi vị 10g; quế 5g; bồ hóng, diêm tiêu, mỗi vị 2g; xạ hương 0,05g. Tất cả sắc cách thủy với 200ml nước trong 15 - 30 phút, chia uống làm hai lần trong ngày. Nên uống sau bữa ăn trưa và tối. Uống trong 2 ngày. Lưu ý: Trong quá trình điều trị không nên đồ nếp và muối mặn.
Thuốc xông giải cảm: Lá sả, lá bưởi, lá chanh, cúc tần, hương nhu hoặc lá bạch đàn (có thể thêm tía tô, bạc hà, kinh giới), mỗi thứ 50g, cho vào nồi, đậy kín, đun sôi trong 5-10 phút. Lấy ra, mở vung, trùm chăn xông hơi cho ra mồ hôi, lau khô, rồi uống một bát nước thuốc, đắp chăn, nằm nghỉ.
Chữa phù nề chân, đái rắt: Lá sả 100g, rễ cỏ xước, rễ cỏ tranh hoặc bông mã đề, mỗi thứ 50g. Tất cả rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Dùng 3 - 4 ngày.
Làm sạch gàu, trơn tóc: Lá sả, hương nhu, lá bưởi..., mỗi vị 30g, rửa sạch đun với nước, để ấm gội đầu. Mỗi tuần nên gội 2 lần. Nước gội đầu có vị sả không những làm thơm tóc, sạch gầu mà còn tránh những bệnh về tóc và da đầu.
Rễ sả: (Có thể dùng riêng hoặc phối hợp với vị thuốc khác).
Chữa tiêu chảy do lạnh bụng: Rễ sả 10g; củ gấu, vỏ rụt, mỗi vị 8g; vỏ quýt, hậu phác, mỗi vị 6g tất cả đem sắc với 3 bát nước còn 1 bát, uống khi thuốc còn ấm nên uống vào buổi sáng. Dùng trong 2 ngày. Hoặc rễ sả 10g, búp ổi 8g, củ riềng già 8g, thái nhỏ, sao qua, sắc với 200ml nước còn lại 50ml, uống sau bữa ăn.
Chữa ho do cảm cúm: Rễ sả, trần bì, sinh khương, tô tử, mỗi vị 200g, tất cả giã nát, ngâm với rượu 40 độ (200ml rượu); bách bộ bỏ lõi, thái nhỏ, sao khô 400g; mạch môn bỏ lõi 200g; tang bạch bì tẩm mật, sao vàng 200g, 3 vị thuốc này đem sắc cô đặc lại thành 250ml cao lỏng. Trộn lẫn cao lỏng và rượu ngâm thuốc. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 5-10ml. Uống trong 3 ngày.           
Theo Bác sĩ  Nguyễn HuyềnSức khỏe và đời sống